bn-current-user-online-portlet

Online : 4364
Total visited : 150779546

Cần sự vào cuộc quyết liệt của toàn xã hội, chung tay giải quyết tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh

08/07/2022 14:10 View Count: 226

Nhiều năm qua, Việt Nam đang phải đối mặt với một vấn đề - lựa chọn giới tính thai nhi. Lựa chọn giới tính thai nhi làm mất cân bằng giới tính khi sinh đã trở thành vấn đề nóng bởi hậu quả và những hệ lụy khôn lường

Các nhà nhân khẩu học nhận định, để xóa bỏ tâm lý, tập quán muốn có con trai "nối dõi tông đường", kiểm soát việc lạm dụng kỹ thuật và công nghệ hỗ trợ lựa chọn giới tính thai nhi không phải là điều đơn giản, có thể thực hiện trong "một sớm, một chiều" mà đòi hỏi sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp ủy Đảng, các ban ngành đoàn thể và sự vào cuộc mạnh mẽ của toàn xã hội.

Nhiều năm qua, Việt Nam đang phải đối mặt với một vấn đề - lựa chọn giới tính thai nhi. Lựa chọn giới tính thai nhi làm mất cân bằng giới tính khi sinh đã trở thành vấn đề nóng bởi hậu quả và những hệ lụy khôn lường. Tuy nhiên, mục tiêu và giải pháp để giảm nhanh tỷ số giới tính khi sinh là không dễ dàng, đòi hỏi phải có thời gian và huy động nhiều nhân lực, chi phí lớn. Điều đó được xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan làm mất cân bằng giới tính khi sinh và những bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới khi giải quyết vấn đề này.

Có nhiều cách để thực hiện lựa chọn giới tính thai nhi trong thời đại công nghệ hiện nay, phương pháp chủ yếu là lạm dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật để thực hiện lựa chọn giới tính như: áp dụng ngay từ trước lúc có thai (chế độ ăn uống, chọn ngày phóng noãn…); trong lúc thụ thai (chọn thời điểm phóng noãn, chọn phương pháp thụ tinh, lọc rửa tinh trùng để chọn tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y…); hoặc khi đã có thai (sử dụng siêu âm, bắt mạch, chọc hút dịch ối…) để chẩn đoán giới tính, nếu là thai trai thì để lại, nếu là thai gái thì bỏ đi...

Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam là do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động trực tiếp, gián tiếp, bao gồm:

Tư tưởng nho giáo truyền thống, nối dõi tông đường,… đã làm cho tâm lý ưa thích con trai trở lên mãnh liệt. Người chồng thường là chủ hộ trong gia đình, có quyền quyết định những việc lớn. Quan niệm có con trai mới được xem là đã có con “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, không có con trai là tuyệt tự. Con thường mang họ của bố. Khi cha mẹ chết, con trai được đứng trước, con gái đứng sau, chỉ có cháu trai mới được bê bát hương ông, bà; con trai mới được vào nơi thờ tự, đóng góp giỗ tổ tiên,… Tất cả những điều đó đã ăn sâu vào tiềm thức đa số các cá nhân, cặp vợ chồng, gia đình và dòng họ.

Những nguyên nhân tác động gián tiếp nhưng mức tác động khá mạnh như: do áp lực giảm sinh, mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh 1-2 con nhưng phải có con trai nên đã sử dụng các dịch vụ lựa chọn giới tính thai nhi; do nhu cầu kinh tế, điều kiện lao động thủ công làm nhiều công việc nặng nhọc trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp, khai thác khoáng sản, đi biển đánh bắt xa bờ,... đòi hỏi sức lao động cơ bắp của con trai và con trai là trụ cột về kinh tế…

Bên cạnh các nguyên nhân trên, còn có nguyên nhân về pháp luật chưa đồng bộ, chưa tạo cơ sở pháp lý cao nhất để quy định các biện pháp can thiệp vào nguyên nhân gốc rễ là sự ưa thích sinh con trai, văn hóa nho giáo với phong tục về việc mong muốn có con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên. Hỗ trợ nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ và trẻ em gái. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức.

Nếu xu hướng gia tăng tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam không được khống chế, nó sẽ trở thành vấn đề nghiêm trọng trong tương lai, ảnh hưởng đáng kể đến cơ cấu dân số hợp lý về giới tính và nhân khẩu học. Tỷ số giới tính khi sinh tiếp tục cao trong các năm tiếp theo thì đến năm 2050 nước ta sẽ có khoảng  2,3 - 4,3 triệu nam thanh niên ít có cơ hội lấy được vợ trong nước, gây hệ lụy cho sự phát triển bền vững [1].

Trong Báo cáo “Lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới tại Việt Nam: Dự báo cơ cấu dân số và khuyến nghị cải cách chính sách” của Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố đầu tháng 4/2022, Việt Nam đứng trước nguy cơ “dư thừa” nam giới trong 3 thập kỷ tới. Đây là hệ quả của việc tỷ số giới tính khi sinh tăng mạnh tại Việt Nam từ những năm 2000. Tình trạng này có thể dẫn đến tình trạng bạo lực giới, nạn buôn người, mại dâm, bất ổn chính trị và thiệt hại kinh tế.

Nếu nhìn vào kịch bản “giảm”, có khoảng 1,3 triệu nam giới độ tuổi 20-39 bị dôi dư vào năm 2044, tương ứng với 8,1% nam giới bị dư so với phụ nữ cùng nhóm tuổi. Mức dư đó tăng lên đến 1,7 triệu vào năm 2049 ở nhóm tuổi rộng hơn từ 20-49 tuổi. Con số này sẽ giảm dần sau đó, nhưng dự báo vẫn cho thấy có 1,3 triệu nam giới ở nhóm tuổi 20-49 bị dôi dư vào năm 2069 (nghĩa là 7,5% của nhóm tuổi rộng hơn này). Tình trạng thừa nam giới sẽ tiếp tục tăng theo kịch bản bi quan (không giảm), nếu tỷ số giới tính khi sinh vẫn ở mức 111 đến năm 2069. Tương tự với kịch bản dự báo "phản thực tế", ở mức đỉnh vào năm 2054, Việt Nam có thêm khoảng 1,7 triệu nam giới ở độ tuổi 20-49, trong đó 750.000 tăng thêm do tác động cộng dồn của tỷ số giới tính khi sinh chênh lệch trước đó. Tình trạng thừa nam trên vẫn thể hiện rõ đến năm 2069. 

Mất cân bằng nhân khẩu học này tại Việt Nam cũng như các quốc gia khác sẽ tác động lâu dài đến cơ cấu tuổi và giới tính. Số lượng trẻ sơ sinh nam dư thừa sẽ dần chuyển thành trẻ em trai dư thừa và nam giới trưởng thành dư thừa. Một trong những hậu quả xã hội gây ra bởi mất cân bằng giới tính khi sinh được bàn thảo nhiều nhất là tác động của việc dư thừa nam thanh niên đối với hệ thống hôn nhân tại địa phương và hiện tượng gọi là “sức ép hôn nhân” (số lượng chú rể tương lai nhiều hơn cô dâu). Nhiều nam giới sẽ buộc phải trì hoãn hoặc thậm chí từ bỏ việc kết hôn do không kiếm được vợ.

Vì vậy, việc quy định trong Luật Dân số để giảm thiểu, hạn chế và xóa bỏ tình trạng lựa chọn giới tính thai nhi ở Việt Nam là một vấn đề cấp thiết, cần phải được thực hiện đồng bộ, liên tục, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan. Đồng thời, cũng là để thực hiện có hiệu quả mục tiêu giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh mà Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới đã đặt ra.

Mục tiêu giải quyết vấn đề: Giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh, đến năm 2030 tỉ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống [2], tiến tới đưa tỷ số giới tính khi sinh trở lại mức cân bằng tự nhiên.

Giải pháp đề xuất để giải quyết vấn đề: (1) Quy định nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi và phân biệt đối xử giới dưới mọi hình thức; tuyên truyền vận động, truyền thông, giáo dục nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi của từng cá nhân và cộng đồng về không lựa chọn giới tính thai nhi; đưa các nội dung về xóa bỏ phân biệt, định kiến giới, trọng nam hơn nữ, kỳ thị con gái hoặc con trai và các nội dung liên quan vào chương trình giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân; vào hương ước, quy ước của thôn, ấp, bản, tổ dân phố trên cơ sở tự nguyện, thỏa thuận, thống nhất. (2) Quy định lồng ghép việc hỗ trợ nâng cao vị thế, vai trò của phụ nữ và trẻ em gái trong xây dựng, thực hiện chiến lược, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội. (3) Quy định trách nhiệm cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức; thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm; thực hiện có hiệu quả các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới và các biện pháp khác theo quy định của pháp luật.

Cần sự chung tay của toàn xã hội, đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức tự nhiên

Cần sự chung tay của toàn xã hội, đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức tự nhiên

Giải pháp này có những ưu điểm là giải quyết các nguyên nhân của tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam, trong đó có nguyên nhân gốc rễ là sự ưa thích sinh con trai, quan niệm muốn có con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên; đồng thời phù hợp với các giá trị văn hóa dân tộc. Tạo cơ sở pháp lý ngăn ngừa có hiệu quả việc lạm dụng khoa học - công nghệ để lựa chọn giới tính thai nhi.

Tuy nhiên, để thực hiện giải pháp này phải huy động các cơ quan, tổ chức, cá nhân, gia đình và toàn xã hội tham gia, đồng thời phải thực hiện đồng bộ các biện pháp và kiên trì thực hiện trong thời gian dài mới phát huy tác dụng do sự ưa thích sinh con trai, quan niệm muốn có con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên trải qua hàng nghìn năm đã ăn sâu trong tiềm thức của đa số người dân.

-------------------

[1] Theo dự báo của UNFPA.

[2] Mục tiêu cụ thể của Nghị quyết 21-NQ/TW.

Source: Tổng cục Dân số - KHHGĐ